TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 45 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA
(02/4/1975 - 02/4/2020) VÀ 45 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN
MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2020)
PHẦN I
CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN CÔNG OANH LIỆT
CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG
HOÀN TOÀN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Ngày 30/4/1975, Nhân dân ta kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước lâu dài, gian khổ và ác liệt nhất trong lịch sử kháng chiến của
dân tộc. Đây là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội trong thế kỷ XX do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi chiến công của dân tộc ta trên
con đường dựng nước và giữ nước suốt hàng ngàn năm lịch sử.
45 năm đã trôi qua, nhưng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của dân tộc vẫn in dấu ấn sâu đậm trong lòng Nhân dân ta và bạn bè tiến
bộ yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do, công lý trên thế giới và vẫn là sức
mạnh tinh thần to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
I. NHỮNG THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất
mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới,
từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân
Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào
miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài
đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay
gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ
nghĩa xã hội (CNXH), phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải
phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao.
Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc
được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam2
vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.
2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta trải qua gần 21
năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng
và Nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống tên đế quốc giàu mạnh và hung
bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này đã trải qua nhiều giai đoạn,
phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế quốc Mỹ.
2.1. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn
lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương
thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ
Những chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà
đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ
đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất
cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai
Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ chia cắt lâu dài
đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng”,
“diệt cộng”, đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng
chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt
cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà
tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững
mạnh của cách mạng cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích
cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức
cuộc sống mới. Trong ba năm (1958 - 1960), chúng ta đã hoàn thành về cơ bản
công cuộc cải tạo XHCN, căn bản xóa bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường đi lên CNXH, chuẩn bị một
số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc
đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận Nhân dân vẫn
một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách
mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu,3
phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai
miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu
cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền
Nam; định hướng và động viên Nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra
phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền
Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.
2.2. Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát
triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mỹ
Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến
lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét,
dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập
trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi Nhân dân. Cuộc đấu tranh của Nhân
dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến
tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính
trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá
sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Trên miền
Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng đều có bước phát triển
mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản
xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
2.3. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động
toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân,
hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc
Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển
sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ
động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình
định, kìm kẹp Nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng
25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại
miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm
lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những
trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plei Me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta
lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh
thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng
bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn. Quân dân
miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải4
quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông
suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định
vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống
thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
2.4. Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên
minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán
Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, từng bước
mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực
hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để
làm suy yếu cuộc kháng chiến của Nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc.
Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một
bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Những thắng lợi của
chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo
thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta. Nhờ
chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành
thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh
thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục
diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn
khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký
Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam.
So sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta
giành thắng lợi cuối cùng.
2.5. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo
thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc
Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực
hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của,
vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế Nhân
dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển
của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari5
của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải
phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con
đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ
lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nữa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân
và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã
giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt.
Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ
Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược
giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải
phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông
Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975
càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó
quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam
đã đến.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 04/3
bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá
đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng
Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết
thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính
trị, quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
II. KHÁNH HÒA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
1. Nỗ lực phấn đấu vượt khó khăn thử thách, kịp thời chuyển phương
châm, phương thức đấu tranh đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ - cuộc kháng chiến lâu dài, gian
khổ và oanh liệt nhất trong lịch sử của quê hương, đất nước. Vượt qua những
năm tháng khó khăn thời gian đầu, quân và dân Khánh Hòa đã bền bỉ đấu tranh
chống chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, kiên quyết bảo tồn lực lượng cách
mạng.
Từ năm 1960, thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, cùng với
khí thế của toàn miền, phong trào cách mạng ở Khánh Hòa chuyển từ thế giữ
gìn lực lượng sang thế tấn công. Ở miền núi, quân và dân ta đã bẻ gãy các cuộc
càn quét của địch, giải phóng miền núi xây dựng thành căn cứ địa vững chắc
cho phong trào kháng chiến toàn tỉnh. Ở đồng bằng, Nhân dân đồng khởi giành
quyền làm chủ và lỏng kèm một mảng lớn vùng nông thôn, đưa phong trào đấu
tranh bằng quân sự, chính trị, binh vận, thực hiện ba mũi giáp công lên từng6
bước, làm thất bại “quốc sách ấp chiến lược” xương sống “Chiến tranh đặc
biệt” của Mỹ - ngụy.
Tháng 8/1961, Hội nghị Tỉnh ủy đặt mạnh vấn đề tập trung sức phá kế
hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của địch. Từ đó, phong trào đấu tranh vũ
trang trong tỉnh ngày một phát triển. Lực lượng vũ trang của tỉnh liên tục tấn
công vào các đồn bót, trụ sở và triệt phá nhiều ấp chiến lược của địch ở khắp
các huyện, thị. Từ cuối năm 1964 đến năm 1965, được sự hỗ trợ tích cực của
lực lượng vũ trang, phong trào đồng khởi ở đồng bằng nổi lên mạnh mẽ, giải
phóng được nhiều vùng trong tỉnh, góp phần cùng toàn miền làm phá sản chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy
Tháng 3/1965, Mỹ đưa quân vào miền Nam thực thi chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”. Ngày 10/6/1965, Mỹ đổ bộ vào Cam Ranh và xây dựng thành
một khu căn cứ quân sự khổng lồ, một kho hậu cần chiến lược phục vụ cho
Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Quân Mỹ và Nam Triều Tiên mở rộng căn cứ,
tiến hành càn quét bắn phá, tạo điều kiện cho quân ngụy lấn chiếm vùng giải
phóng. Quân và dân ta đã bám đánh địch quyết liệt. Ở Bắc Khánh, bộ đội địa
phương và du kích đánh lui các trận càn của các Tiểu đoàn quân Mỹ và Nam
Triều Tiên. Ở Nam Khánh, ta đánh lui cuộc càn của Lữ đoàn dù 101 Mỹ vào
căn cứ Hòn Dữ. Từ năm 1965 - 1967, quân, dân Khánh Hòa đã chiến đấu anh
dũng, góp phần với quân dân toàn miền đánh bại hai cuộc phản công chiến
lược mùa khô của đế quốc Mỹ.
Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968 ở Khánh Hòa đã nổ ra trong giờ phút đầu tiên của toàn miền và
thực hiện mạnh mẽ ở trọng điểm Nha Trang. Phối hợp với phong trào đấu
tranh chính trị của Nhân dân, quân ta đã đột nhập tiến công đồng loạt vào các
cơ quan đầu não của địch ở khắp các quận lỵ, thị trấn, chiếm lĩnh một số nơi
quan trọng trong thị xã Nha Trang. Thắng lợi của quân và dân Khánh Hòa
trong Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là rất quan trọng, đã
góp phần vào thắng lợi chung của toàn miền.
Sau thất bại Xuân Mậu Thân, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị phá sản,
đế quốc Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh và ngồi hội đàm với ta ở Pari.
Tuy bị thất bại nặng nề, nhưng âm mưu và bản chất cực kỳ ngoan cố của Mỹ
vẫn không thay đổi, chúng chuyển sang dùng chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” thực hiện “bình định cấp tốc” với nhiều thủ đoạn cực kỳ tinh vi, xảo
quyệt. Trước tình hình đó, từ đầu năm 1969 đến Thu Đông năm 1971, Tỉnh ủy
đã tổ chức sắp xếp lại lực lượng và chủ trương mở các chiến dịch từ HT1 đến
HT4 với phương châm “giành dân, giành quyền làm chủ, làm chủ để tiêu diệt
địch, tiêu diệt địch để làm chủ”. Lực lượng vũ trang và Nhân dân các địa
phương đã tổ chức hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, tiến hành diệt ác trị điệp, phá7
rã lực lượng phòng vệ dân sự trên một diện rộng, đẩy lùi kế hoạch “bình định
đặc biệt” của địch, làm chủ thêm nhiều địa bàn mới. Phong trào chiến tranh du
kích, hoạt động của tự vệ mật, các đội vũ trang công tác bám dân, bám làng
bằng hầm bí mật đã trở thành phổ biến. Phong trào đấu tranh chính trị của quần
chúng, nòng cốt là phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng. Phong trào đấu tranh
của phật tử nổ ra khá rầm rộ chống lại chính sách bất công của ngụy quyền
Thiệu. Phong trào đấu tranh của thương phế binh ở Nha Trang do bức xúc về
quyền lợi diễn ra khá mạnh mẽ, có lúc rất quyết liệt. Tiếp theo các chiến dịch
HT, cùng toàn quân Khu V, ta mở chiến dịch Xuân Hè 1972. Thắng lợi trong
chiến dịch Xuân Hè 1972 đã đánh bại thêm một đòn quan trọng kế hoạch “bình
định nông thôn” của địch, buộc chúng phải co vào thế phòng ngự xung quanh
thị xã, thị trấn, chi khu và quận lỵ.
2. Cùng các chiến trường, phối hợp với lực lực lượng chủ lực, tiến lên
giải phóng toàn tỉnh
Trước sự thất bại nặng nề của Mỹ và trên cơ sở so sánh tương quan lực
lượng giữa ta và địch, cuối năm 1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng hạ quyết
tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thực hiện chủ trương này, vào tháng
02/1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa đã họp bàn biện pháp thực hiện
chỉ thị của Khu ủy và chuẩn bị tốt mọi mặt để phối hợp giải phóng các huyện.
Tháng 3/1975, quân ta mở chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà
Nẵng, sau khi lực lượng chủ lực của ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột, cắt đứt
đường 21; địch bất lực, ta chiếm luôn quận lỵ Khánh Dương vào ngày 22/3.
Sáng ngày 31/3, Sư đoàn 10 chủ lực của ta từ phía Tây thừa thắng tiến quân về
phía Đông với sức mạnh như vũ bão. Tại huyện Ninh Hòa (nay là thị xã Ninh
Hòa), đội vũ trang công tác và du kích cùng Nhân dân nổi dậy ở nhiều xã, ngày
01/4 Ninh Hòa giải phóng. Từ ngày 01 đến ngày 02/4, vùng nông thôn và thị
trấn Vạn Giã, Vạn Ninh được giải phóng. Địch ở Nha Trang nhốn nháo tháo
chạy. Các đội võ trang và cơ sở của ta trong thị xã đã chủ động bảo vệ các cơ
sở kinh tế, quân sự quan trọng. 15 giờ ngày 02/4, Sư đoàn 10 có sự phối hợp
với quân dân địa phương tiến vào giải phóng thị xã Nha Trang, tiếp theo là
Vĩnh Xương, Diên Khánh. Ngày 03/4, giải phóng thị xã Cam Ranh và khu liên
hợp quân sự Cam Ranh; 58.000 quân địch ở Khánh Hòa hoàn toàn tan rã.
Sau khi được giải phóng, Khánh Hòa trở thành bàn đạp quan trọng của
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đồng thời quân và dân Khánh Hòa đã góp
phần cùng các lực lượng thuộc Quân khu 5 và bộ đội hải quân, lần lượt giải
phóng các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn... Ngày 29/4/1975,
toàn bộ quần đảo Trường Sa được giải phóng. Ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn
toàn giải phóng.8
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của quân và dân tỉnh ta cùng với cả nước trải suốt 21 năm, với bao gian
khổ hy sinh, đầy thử thách, song vô cùng oanh liệt và vẻ vang. Quân và dân
Khánh Hòa đã đánh hàng nghìn trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 30
ngàn tên địch; trong đó có hơn 03 ngàn tên Mỹ, gần 06 ngàn tên Nam Triều
Tiên; bắn rơi, phá hủy, đốt cháy 318 máy bay các loại; phá hủy 130 ngàn tấn
bom đạn, 350 tấn hàng quân sự; đốt cháy và phá hủy hơn 100 triệu lít xăng
dầu, 34 xe quân sự; đánh chìm 9 tàu chiến, 62.119 tên tề nguỵ bị bắt và ra trình
diện. Những chiến công này đã góp phần quan trọng làm nên toàn thắng vẻ
vang của cả nước, xứng đáng với danh hiệu được Đảng và Nhà nước khen
tặng: Anh hùng lực lượng vũ trang cho Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân
dân tỉnh Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ NHỮNG
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC
1. Ý nghĩa lịch sử
1.1. Đối với Khánh Hòa: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của quân và dân Khánh Hòa là một trong những mốc son sáng ngời trong
lịch sử Đảng bộ và Nhân dân Khánh Hòa, đem lại hòa bình, độc lập, tự do,
hạnh phúc cho Nhân dân tỉnh nhà; thể hiện tinh thần quyết chiến, quyết thắng
của Đảng bộ, quân và Nhân dân trong tỉnh; góp phần cùng với cả nước làm nên
chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước, tô đậm thêm trang sử vàng của dân tộc Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh.
1.2. Đối với Việt Nam: Thắng lợi của Nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử
hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm
của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài
người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do,
thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa
thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch
sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
1.3. Đối với thế giới: Thắng lợi của Nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới;
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu9
độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân
tộc tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu
sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
2. Nguyên nhân thắng lợi
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là, Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền
thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi
theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền con người.
Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một
lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành
sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Năm là, đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân
Campuchia; đoàn kết quốc tế.
3. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh
cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện và nghệ
thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh
cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến
tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết
định.
Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh,
nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.10
PHẦN II
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG TRONG CHIẾN ĐẤU
VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. THÀNH TỰU CHUNG CỦA ĐẤT NƯỚC
Sau khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, đưa sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân ta vượt qua khó khăn, thử thách và giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Sau gần 35 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn
lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hoá, xã hội tiếp
tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện; công
tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết
toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng
- an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu
hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong
các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Mới đây, được Đại hội đồng Liên hợp
quốc bầu với số phiếu tín nhiệm rất cao, gần như tuyệt đối, lần thứ hai trở
thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Với những
thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Riêng năm 2019, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nền kinh
tế nước ta tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra;
chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện: Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2019 đạt 7,02% so với cùng kỳ năm 2018, vượt mục tiêu kế hoạch
đề ra (6,6 - 6,8%), tuy thấp hơn mức tăng 7,08% của năm 2018 nhưng cao hơn
mức tăng của các năm 2011 - 2017, là năm thứ hai liên tiếp kể từ năm 2011
GDP tăng trên 7%. Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc, lạm phát được kiểm soát
ở mức thấp, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tạo môi
trường, động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Cơ cấu lại nền kinh tế dần đi vào
thực chất, chuyển dịch tích cực, theo hướng giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện: Xếp hạng năng lực cạnh tranh
của Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế thế giới đánh giá tăng 10 bậc và 3,5 điểm
so với năm 2018 - mức tăng mạnh nhất thế giới. Số doanh nghiệp thành lập
mới năm 2019 đạt mức kỷ lục trên 138 nghìn doanh nghiệp, vốn đăng ký bình
quân một doanh nghiệp đạt 12,5 tỷ đồng. Tổng số vốn đăng ký mới đạt khoảng11
1,7 triệu tỷ đồng. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ; giảm nghèo đạt kết quả tích
cực; đời sống Nhân dân được nâng lên. An ninh, quốc phòng được giữ vững.
II. THÀNH TỰU CỦA TỈNH KHÁNH HÒA
Từ sau ngày giải phóng, với truyền thống đấu tranh anh dũng, được rèn
luyện thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng, toàn Đảng bộ, toàn dân,
toàn quân Khánh Hòa tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước khôi
phục và phát triển kinh tế. Từ một tỉnh nghèo, lạc hậu, bị kiệt quệ vì chiến
tranh, bom đạn, cơ sở vật chất, kỹ thuật hầu như không có gì, qua 45 năm giải
phóng, đặc biệt, gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng, lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền, quân, dân đã nêu cao bản lĩnh, khí
phách anh hùng của vùng đất, con người Khánh Hòa, đã đạt được thành tựu
quan trọng, nổi bật về phát triển kinh tế, trong 10 năm trở lại đây, giữ vững
nhịp độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tiềm
năng, lợi thế, các nguồn lực xã hội được khai thác, phát huy hiệu quả. Cơ sở
vật chất kỹ thuật được đầu tư phát triển, bộ mặt đô thị, nông thôn và miền núi
có nhiều khởi sắc.
Trong đó, năm 2019, tốc độ tăng trưởng GRDP tăng 6,99%, thu nhập bình
quân trên 69 triệu đồng/người/năm, thu ngân sách đạt trên 19.000 tỷ đồng,
Khánh Hòa là 01 trong 16 tỉnh, thành tự cân đối được ngân sách và có đóng
góp cho Trung ương. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 46.200 tỷ đồng, nhiều
công trình dự án trọng điểm được triển khai thực hiện và phát huy hiệu quả; du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, doanh thu du lịch đạt 27.000 tỷ đồng; tổ
chức thành công Năm Du lịch Quốc gia, Festival Biển năm 2019 được bạn bè
trong nước, quốc tế đánh giá cao; an sinh xã hội được bảo đảm; giáo dục, y tế,
văn hóa, môi trường, cải cách hành chính đạt nhiều kết quả tiến bộ, có 50/94 xã
đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,06%; đời sống vật chất,
tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện. An ninh, quốc phòng
được giữ vững. Những thành tựu và tiến bộ đạt được về kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng là sự thể hiện đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng.
Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh luôn chú trọng công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình, phát huy
dân chủ và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, làm hạt nhân cho khối
đoàn kết toàn dân.
Năm 2020, là năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XVII;
năm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII;
tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; năm kỷ niệm nhiều sự kiện
chính trị trọng đại; năm Việt Nam thực hiện vai trò Chủ tịch ASEAN và Uỷ
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tình hình quốc tế và12
trong nước tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn,
thách thức, nhất là trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, đòi hỏi toàn
Đảng bộ, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực, quyết tâm, đoàn kết, phấn đấu
để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của năm 2020.
* *
*
Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng tỉnh Khánh Hòa (02/4/1975 -
02/4/2020) và 45 Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975
- 30/4/2020) cũng là dịp để toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân ôn lại trang sử
vẻ vang, truyền thống đấu tranh hào hùng của dân tộc Việt Nam nói chung, của
Đảng bộ và Nhân dân Khánh Hòa nói riêng; nhìn lại chặng đường phấn đấu
xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những
bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc; thể
hiện sự tri ân đối với các thế hệ cha anh, của đồng bào, đồng chí khắp mọi
miền đất nước đã góp sức người, sức của và xương máu, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn Khánh Hòa. Từ đó, tiếp thêm sức mạnh, ý
chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; xây dựng Khánh Hòa trở thành tỉnh giàu, đẹp.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY KHÁNH HÒA